Bệnh thối đen lép hạt lúa

Giới thiệu bệnh hại

Bệnh lem lép hạt lúa
Bệnh lem lép hạt lúa

Bệnh thối đen lép hạt (còn được gọi là bệnh lép vàng vi khuẩn) do vi khuẩn Pseudomonas glumae gây ra là một trong những bệnh hại phổ biến nhất ở các vùng trồng lúa trên thế giới và nước ta. Bệnh này được phát hiện đầu tiên tại Nhật Bản vào năm 1956. Từ những năm 1980 trở lại đây, bệnh thối đen lép hạt lúa xuất hiện và gây hại ở nhiều vùng trồng lúa trên thế giới như Nhật Bản, Đài Loan, Phillipil, Hàn Quốc…Ở nước ta, bệnh được ghi nhận vào năm 1993 tại đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay bệnh này trở nên phổ biến ở các vùng trồng lúa ở nước ta và có xu hướng gia tăng về diện tích và mức độ gây hại. Hầu như ở vụ mùa, ở chân ruộng nào cũng bệnh, hiện tại chưa ghi nhận được giống lúa nào kháng và chống chịu bệnh này.

Đối tượng gây hại 

Bệnh gây hại trên lúa, tác động trên hạt lúa

Triệu chứng của bệnh đen lép hại lúa

Vi khuẩn gây bệnh có thể xâm nhập, gây bệnh trên hạt và cây mạ non. 

Trên cây mạ non nhiễm bệnh, bẹ lá ban đầu xuất hiện chấm màu nâu, sau chuyển sang màu nâu đậm, vết bệnh lan dần xuống gốc lúa, không có hình dạng cụ thể. Ở giai đoạn cuối của bệnh, vết bệnh sẽ bị thối nhũn (hoại tử). Vết bệnh trên tất cả bẹ lá có màu nâu đậm, sau dần chuyển sang nâu đen và làm mạ bị thối. Ở cây mạ non bị bệnh thối đen thường bị lụi đi, không phát triển được và chết, lá mạ bị vàng úa ở phần lá bên dưới, chuyển từ màu nâu sang nâu đậm.

Bệnh trên hạt: Từ giai đoạn lúa trổ đến chín sữa là thời kỳ mẫn cảm, vi khuẩn dễ tấn công gây hại vào hoa và vỏ hạt.

Hạt lúa bị bệnh
Hạt lúa bị bệnh

Ban đầu ở phần vỏ trấu của phôi hạt lúa biến màu hoặc có màu vàng nhạt, bên ngoài vỏ lúa vết bệnh nhanh chóng lây lan ra tất cả vỏ trấu. Hạt lúa chuyển từ màu trắng kem sang nâu, nâu vàng nhạt hay màu nâu đỏ nhạt.

Ở hạt bệnh dễ dàng nhận thấy sự khác biệt giữa mô khỏe và mô bệnh bằng một đường màu nâu cắt ngang trên vỏ hạt.

Nếu bệnh nặng thì vỏ trấu có màu vàng nhạt, hạt lép hoàn toàn, phôi hạt có màu nâu, hạt gạo không đầy phôi mủn, có màu trắng đục hay nâu xám, đen và dễ gãy.

Khi cả bông lúa bị nhiễm bệnh, bông lúa thường thấy đứng thẳng trông như sâu đục thân gây bệnh, nhưng khác là vỏ trấu có màu vàng nhạt.

Nguyên nhân phát sinh bệnh

Vi khuẩn Pseudomonas glumae (còn có tên gọi khác là Burkholderia glumae) là nguyên nhân chính gây bệnh thối đen lép hạt lúa.

Vi khuẩn Pseudomonas
Vi khuẩn Pseudomonas

Hình thái: Vi khuẩn có hình trụ, có 1 – 3 lông roi ở một đầu, kích thước 1.5-2.5×0.5-0.7 micromet. Thuộc vi khuẩn Gram âm.  Vi khuẩn có vỏ bọc, không sinh nha bào.

Trong môi trường nuôi cấy nhân tạo (bằng khoai tây), khuẩn lạc có màu trắng sữa, hơi vàng.

Vi khuẩn có thể tồn tại ở nhiệt độ từ 11 đến 14oC, phát triển tốt nhất ở ngưỡng 30 đến 35oC, và chết ở 70oC.

Điều kiện phát sinh bệnh

  • Bệnh thối đen lép hạt phát sinh gây bệnh ở hầu hết thời vụ từ đông xuân, hè thu, vụ mùa. Bệnh thường xuất hiện ở Bắc bộ nhiều hơn, đặc biệt là vụ lúa mùa trổ sớm vào cuối tháng 8 và đầu tháng 9, vì thời tiết lúc này thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập. Tại các tỉnh ở khu vực miền Trung và Nam bộ thì bệnh thường phát triển mạnh trên vụ lúa Hè thu.
  • Điều kiện thuận lợi cho bệnh sinh trưởng và phát triển mạnh là nhiệt độ cao, ẩm độ cao. Bệnh thường xuất hiện rõ lúc lúa chín sữa, nếu bị sớm vào khoảng 4 – 5 ngày sau trổ (tỷ lệ trổ trên 40%) thì mức độ gây hại của bệnh sẽ nặng hơn các giai đoạn sau.  Mức độ nhiễm bệnh giảm dần khi sau 11 ngày trổ, có nghĩa là khi bệnh xuất hiện từ 20 – 25 ngày đến lúc chín sáp, khả năng gây bệnh của vi khuẩn chậm hơn hay gần như không phát triển.
  • Chân ruộng cao hay mẫu chứng bệnh gây hại nặng hơn.
  • Ở những ruộng bón phân không cân đối, thừa đạm, hoặc bón phân quá muộn thì khả năng nhiễm bệnh cần nặng.

Ảnh hưởng của bệnh

Bệnh làm giảm chất lượng hạt gạo do bị biến màu, hay lép. Nếu bệnh xâm nhập hạt sớm sẽ làm hạt bị lép hoàn toàn, còn ở giai đoạn muộn thì làm hạt lửng.

Bệnh làm giảm năng suất, sản lượng lúa. Theo các nhà khoa học IRRI thì bệnh thối đen lép hạt do vi khuẩn hiện nay trở thành nghiêm trọng, có thể làm giảm năng suất lúa đến 50%. 

Biện pháp phòng bệnh

Để phòng bệnh thối đen lép hạt ở lúa bà con cần áp dụng tổng hợp các biện pháp dưới đây:

Biện pháp giống

Chọn giống khỏe, có đề kháng cao: Gieo cấy giống có xác nhận, giống lúa ít mang mầm bệnh. Không lấy giống ở những ruộng bị lem lép nặng ở vụ trước, tránh các giống mẫn cảm với bệnh này như giống CR203, San Hoa (Trung Quốc), ải lùn 32, C70….

Trước khi trồng cần xử lý hạt giống kỹ: Ngâm ủ phơi khô, loại bỏ hạt biến màu, lép lửng bằng nước nóng 54oC trong 10 phút, hoặc sấy khô hạt ở 65oC, trong 6 ngày. Hoặc có thể sử dụng các thuốc hóa học xử lý hạt trên thị trường.

Xử lý hạt giống
Xử lý hạt giống

Biện pháp canh tác

Thời vụ

  • Gieo cấy lúa tránh thời kỳ mưa gió nhiều, đặc biệt là làm sao cho giai đoạn lúa trổ tránh thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều.
  • Khi lúa trổ đòng không để ruộng bị khô hạn.

Vệ sinh đất, khử độc hữu cơ, thau chua rửa mặn cho đất.

Mật độ gieo sạ không quá dày, để ruộng lúa đủ dinh dưỡng. Sạ thưa, sạ hàng từ 80 – 120 kg/ha để tán lá thông thoáng, hạn chế độ ẩm quá cao trong ruộng tạo thuận lợi cho vi khuẩn tấn công.

Gieo cấy mật độ vừa phải
Gieo cấy mật độ vừa phải

Bón phân

Bón phân can đối
Bón phân can đối
  • Bón phân đầy đủ, cân đối, bổ sung thêm các loại trung lượng và vi lượng.
  • Bà con có thể bón phân đón đòng theo kỹ thuật “ngày không, không số” hoặc bón dựa trên bảng so màu.
  • Không bón thừa đạm, hay bón đạm muộn vào giai đoạn trước và sau trỗ bông 5 đến 10 ngày nhằm giảm mức độ nhiễm bệnh.
  • Khi ruộng phát bệnh nên ngưng bón phân và các chất kích thích sinh trưởng, đồng thời tháo rút bớt nước để ruộng khô tầm 2 – 3 ngày để hạn chế vi khuẩn lây lan.

Cần phòng trừ cỏ dại trong ruộng và trên bờ ruộng

Dự tính các tác động

Với việc sản xuất lúa liên tục cùng thời tiết thất thường như hiện nay là điều kiện thuận cho sâu bệnh tấn công. Vì vậy phòng NN và PTNT cần cập nhật thông tin chính xác về thời tiết khí hậu thường xuyên cho bà con nông dân. Lên kế hoạch về thời vụ gieo sạ để tránh các bất lợi về thời tiết làm vi khuẩn có điều kiện tấn cống cây lúa đồng thời khuyến cáo bà con sử dụng các loại giống khỏe, và hướng dẫn các kỹ thuật canh tác hợp lý cho bà con. 

Khi bệnh xuất hiện cần cử cán bộ xuống theo dõi, điều tra sát sao, hướng dẫn bà con cách điều trị bệnh kịp thời.

Biện pháp sinh học

Các chuyên gia có phát hiện rằng sử dụng chế phẩm sinh học từ vi khuẩn đối kháng (chủng Kyu – A.891) và phun vào giai đoạn lúa sắp trổ, đồng thời xử lý hạt lúa ngâm trong dung dịch dòng vi khuẩn mất tính độc P.glumae N750 hoặc 7503 sau đó đem gieo hạt sẽ giúp hạn chế được nguy cơ phát sinh bệnh.

Biện pháp hóa học

Để sử dụng thuốc hóa học có hiệu quả cao trong phòng trừ bệnh thối đen lép hạt lúa do vi khuẩn bà con cần lưu ý những vấn đề sau:

Xử lý hạt giống: Biện pháp xử lý hạt giống trước gieo rất hiệu quả và kinh tế nhất mà bà con lại thường ít chú ý. Bên cạnh việc xử lý giống truyền thống bằng nước nóng (2 lạnh 3 sôi) thì hiện nay có rất nhiều thuốc hóa học có hiệu quả cao trong xử lý hạt giống trước gieo sạ.

Bà con hãy tham khảo sản phẩm của Nghi Anh như: Kibul… Phun nhắc lại 2 đến 3 lần, mỗi lần cách nhau 5 – 7 ngày nếu bệnh nặng

Thuốc trừ bệnh

NA-Kin Bul 100g

Liên hệ để cập nhật giá

Chú ý:

  • Phun theo chỉ dẫn trên nhãn bao bì thuốc và tuân thủ tuyệt đối quy tắc “4 đúng” trong sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
  • Để việc phòng trừ bệnh thối đen lép hạt hiệu quả bà con cần áp dụng biện pháp phun phòng ngừa ở giai đoạn lúa vừa trổ thoát một vài bông và phun lại lần 2 sau lúa trổ đều để bảo vệ cây lúa một cách lâu dài.
  • Tuyệt đối không phối hợp trộn phân bón lá (đặc biệt là phân bón có chứa đạm) khi phun trừ vi khuẩn. Đối với những ruộng có áp lực bệnh cao, mà gặp phải thời tiết bất lợi bà con nên phun lại lần 2 sau lần phun thức nhất ít nhất 5 ngày.

Câu hỏi thường gặp

Bệnh thối đen lép hạt phát sinh, phát triển ở giai đoạn nào trên cây lúa?

Bệnh phát triển chủ yếu ở giai đoạn mạ non và trên hạt lúa

Vết bệnh có hình dạng như thế nào?

Trị bệnh bằng cách nào?

Bà con hãy tham khảo sản phẩm của Nghi Anh như: Kibul… Phun nhắc lại 2 đến 3 lần, mỗi lần cách nhau 5 – 7 ngày nếu bệnh nặng
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận