Đậu tương là một trong những thực phẩm nông nghiệp đang ngày càng phát triển. Bởi cây đậu tương có rất nhiều công dụng có ích cho sức khỏe con người. So với các nước trên thế giới thì cây đậu tương ở Việt Nam trồng chưa quá lâu nhưng với điều kiện thời tiết phù hợp thì cây đậu tương Việt Nam cũng đang dần chiếm ưu thế trên thị trường. Cây đậu tương được biết đến với nhiều chất dinh dưỡng như protein, chất xơ, chất béo,…Đậu tương không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn trong bữa cơm gia đình mà nó còn được sử dụng nhiều trong công nghiệp chế biến thực phẩm khô chế biến ra các loại bánh kẹo, hạt sấy khô,…Hiện nay nhiều mô hình kinh doanh cây trồng nông nghiệp cũng đang dần mở rộng thêm trồng đậu tương. Đi kèm với việc mở rộng quy mô thì cũng kèm theo khá nhiều vấn đề trong công tác trồng trọt, chăm sóc. Bởi cây đậu tương cũng là một loại cây chịu nhiều tác động từ bệnh, sâu hại. Điển hình là loài bọ cánh cứng.
Giới thiệu bệnh hại
– Bọ cánh cứng có tên khoa học là Cerotoma trifurcata, họ Chrysomelidae, bộ Coleoptera. Đây là một loại dịch hại trên cây đậu nành. Bọ cánh cứng phân bố hầu hết trên các vùng trồng đậu tương trên cả nước. Chúng ăn lá mầm, vỏ và quả nên mức độ gây hại rất nặng nề. Không như những loại sâu bệnh khác chỉ hại một bộ phận cây, thì bọ cánh cứng (bọ lá đậu) lại gây hại trên toàn bộ cây đậu nành, khiến cho mùa vụ luôn chịu thiệt hại nặng nề, chất lượng và năng suất giảm trầm trọng.

Đặc điểm hình thái
– Bọ cánh cứng là loài dịch hại có ảnh hưởng lớn tới cây đậu tương (đậu nành).
– Vòng đời của bọ cánh cứng trải qua 3 giai đoạn: Trứng, ấu trùng, thành trùng
+ Trứng: Trứng bọ cánh cứng có hình quả chanh và có màu cam, chúng được tìm thấy ở quanh gốc đậu tương. Ngoài ra, trứng của bọ cánh cứng trong đất ướt hoặc ẩm ướt nhiều hơn trong đất khô. Trứng bọ lá đậu mất một tuần để nở (ở nhiệt độ 28 độ C). Đất quá ẩm hoặc quá khô có thể làm hỏng trứng và ảnh hưởng đến quá trình nở của chúng. Trứng bọ lá đậu thường thích hợp với đất hữu cơ hơn là cát pha sét. Đậu cánh cứng ăn ấu trùng trong đất trên rễ đậu tương và nốt sần. Ấu trùng phát triển qua 3 giai đoạn trước khi thành nhộng trong đất. Ấu trùng có khả năng di chuyển trong đất và trong điều kiện đất khô, có thể di chuyển lên đến 30cm mỗi giờ để tìm kiếm độ ẩm. Các loại đất có thức ăn cho ảnh hưởng đến khả năng sống sót của ấu trùng. Trong điều kiện đất ẩm, ấu trùng sống sót tốt nhất trong đất hữu cơ (0-4% tỉ lệ chết) so với đất pha sét (87-100% tỷ lệ chết) và thịt pha cát sét (0-20% tỷ lệ chết).
Ấu trùng: Khi ấu trùng đầu tiên lên khỏi mặt đất, thân hình rất mềm, thường có màu be vàng.
+ Ấu trùng dưới mặt đất phát triển dài ra giống con sâu, mình màu trắng đến màu be, hai đầu đầu màu nâu sẫm. Màu nâu sẫm đến từ sclerotization đầu của ấu trùng và phân khúc bụng trước. Ấu trùng có thể phát triển đến 10mm, hình trụ tương tự sâu hại rễ ngô. Ấu trùng, nhộng thường có màu trắng.
+ Thành trùng: Thành trùng biến, từ màu đỏ sang màu cam sang màu vàng nhạt. Thông thường các thành trùng có 4 đốm đen vuông trên cánh, tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ có 2 hoặc không có cánh đen nào trên cánh. Sau gáy bọ cánh cứng thường có một tam giác màu đen, là một lớp vảy, thường có sau gáy bọ cánh cứng. Bất kể các côn trùng có bốn, hai hoặc không có màu đen trên cánh, bọ cánh cứng cái hay có mặt màu đen, còn con bọ cánh cứng đực thường có mặt màu xám.


Đối tượng gây hại
– Họ bọ lá đậu thường có nhiều ký chủ lớn chủ yếu là trên các cây họ đậu như đậu tương, đậu đen, đậu xanh, đậu cô ve, cỏ ba lá,…
Triệu chứng gây hại
– Thành trùng (bọ cánh cứng) ăn lá mầm, lá và vỏ quá, trong khi thức ăn ấu trùng trên các nốt đậu tương gắn vào rễ. Ấu trùng bọ ăn nốt rễ đậu tương. Sự phá hoại của ấu trùng rất nặng nề có thể gây ra nốt sần nhỏ hơn và giảm bớt lá. Thiệt hại kinh tế do ấu trùng ăn nốt sần là vô cùng lớn, không thể xác định rõ những chúng có thể ăn cả lá, vỏ quả,..Các lá cây bị thành trùng ăn sẽ không còn nguyên hình mà bị biến thành nhiều hình dạng khác nhau, thường sẽ có những lỗ hổng trên lá. Ở những góc lá bị thành trùng ăn sẽ bị quăn lại, khô, héo. Những vỏ quả bị gây hại cũng tạo thành những mảng lốm đốm trên vỏ. Các vỏ quả bị hại có những vết sẹo, quả bị hại thường teo tóp, mất màu và mốc.

Hình 5: Hình ảnh lá đậu bị thành trùng gây hại
Đặc điểm sinh thái
– Bọ lá đậu là một loại dịch hại vô cùng nặng nề ảnh hưởng lớn tới cây đậu nành. Bọ lá đậu cũng truyền virus đốm quả, một loại virus phổ biến của đậu tương. Những con bọ cánh cứng giao phối và phân tán nhiều trên các cây như: cây linh lăng, cỏ ba lá, cây chĩa ba,..
– Bọ lá đậu trưởng thành thường bay đến ruộng đậu tương. Bọ lá đậu cái bay tới vùng đậu tương, mang trứng tới đặt thành từng cụm nhỏ trên bề mặt đất. Mỗi con cái đẻ 100-200 quả trứng trong suốt cuộc đời của nó. Khi được lựa chọn thì bọ cánh cứng ưa thích đẻ trứng trong đất hữu cơ hơn là đất pha sét.
– Ảnh hưởng của thức ăn bọ lá đậu phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của cây. Một con bọ ăn lá đậu tương trong giai đoạn sinh dưỡng 14 ngày được ước tính tiêu thụ 13,92cm2 diện tích lá. Việc phá hại bọ lá đậu thường làm giảm năng suất từ 12%.
– Trong thời gian đậu tương hình thành quả, làm đầy hạt, bọ cánh cứng có thể ăn trên bề mặt vỏ quả. Các vết ăn trên vỏ quả đậu là nguyên nhân dẫn đến nhiễm trùng thứ cấp do vi khuẩn và nấm, các lỗ sẹo của vỏ đậu tương dẫn đến độ ẩm của hạt bị thừa.
Thiên địch
– Thiên địch tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc giữ mật độ sâu ở phía dưới ngưỡng gây bệnh kinh tế. Nếu không có những loài thiên địch đó thì chúng ta phải sử dụng thuốc hóa học để kiềm chế sâu bệnh. Nhiều năm gần đây nhiều nơi đã sử dụng thiên địch ngăn ngừa sâu hại thay vì dùng quá nhiều thuốc hóa học. Và loại thiên địch đối với bọ cánh cứng là ong mắt đỏ. Ong mắt đỏ sẽ chích hút trên ấu trùng của bọ. Tiến hành đẻ trứng vào bên trong để ngăn cản sự nở của trứng bọ cánh cứng.
Loại bắt mồi: Thường sẽ ăn sau khi bọ cánh cứng đẻ trên lá đậu.

Biện pháp phòng sâu bệnh
– Phương thức gieo trồng: Cần đảm bảo độ chính xác về thời gian trồng, mật độ phù hợp,…
– Sử dụng giống đậu tương kháng sâu bệnh.
– Việc quản lý sâu bệnh là một trong những điều quan trọng cần chú ý khi tiến hành trồng một loại cây gì đó. Nên xác định mật độ sâu bệnh trên đồng ruộng ở những thời kỳ sinh trưởng khác nhau, đồng thời nhận xét mức độ gây hại của sâu bệnh tới cây đậu.
– Theo dõi ruộng trồng đậu tương: Cần nắm bắt được đặc điểm hình thái của sâu bệnh sau đó tiến hành theo dõi mật độ gây hại của sâu bệnh. Dự đoán được tình hình sâu bệnh trên ruộng trồng đậu.
Biện pháp xử lý sâu bệnh
– Sau khi xác định được tỉ lệ gây hại trên ruộng đậu tương thì thông thường sẽ có sử dụng thuốc hóa học. Nhưng bên cạnh đó hiện nay xu hướng giảm thuốc hóa học và sử dụng thiên địch (ký sinh, bắt mồi) để tiêu diệt sâu bệnh đang ngày càng phổ biến. Chỉ khi mật độ bọ cánh cứng gây hại ở mức độ khó kiểm soát thì bà con hãy tham khảo một số sản phẩm trừ sâu điển hình của Nghi Anh như Chim én, Sumo, Đục quả,…
Thuốc trừ sâu

